Thứ Tư, 28 tháng 10, 2015

Trong mắt người già (Báo Người cao tuổi):


 Giữ cho tiếng Việt sáng trong

          Tiến trình hình thành và phát triển lịch sử dân tộc, ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay đã hội đủ những yêu cầu cho sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội. Mặc dù trải hàng ngàn năm Bắc thuộc, chịu sự đồng hoá của ngoại bang, hàng trăm năm đô hộ của thực dân, đế quốc song nền văn hoá của dân tộc Việt vừa được giữ vững, vừa chắt lọc, kế thừa những tinh hoa văn hoá nhân loại, làm giàu thêm nét đậm đà, có bản sắc riêng.  
          Bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế, ngôn ngữ tiếng Việt chịu sự chi phối mạnh mẽ của nhiều ngôn ngữ trên thế giới, trong đó nổi bật là tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga... Từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng xã hội, ở đâu cũng thấp thoáng bóng dáng của ngôn ngữ nước ngoài, nhất là tiếng Anh. Việc sử dụng một số từ nước ngoài trong các văn bản pháp quy dần dần mặc nhiên được thừa nhận bởi trong tiếng Việt còn thiếu. Đó là điều tất yếu với bất kì ngôn ngữ nào trong một thế giới ngày càng “phẳng” và “hẹp” hiện nay.
Tuy nhiên hiện đã có sự lạm dụng thái quá trong tiếp cận, sử dụng ngôn ngữ nước ngoài. Đặc biệt, việc sử dụng tiếng Anh lai tạp, tuỳ tiện đã đến mức báo động trong giới trẻ, học sinh, sinh viên, kể cả trên truyền thông, báo chí. Trên các trang mạng, nhất là trên facebook, thư điện tử…, lứa tuổi học sinh, sinh viên đã biến thái tiếng Việt thành những kí hiệu kì quái khó hiểu. Một số người mẫu, ca sĩ phát thanh viên, dẫn chương trình truyền thông, báo chí khi nói thích đệm vào một vài từ tiếng Anh rất phản cảm. Người sử dụng ngoại ngữ như vậy rõ ràng không phải vì mục đích thông tin, nó chỉ thông tin cho người khác rằng họ biết ngoại ngữ.
Việc viết tên người, địa danh nước ngoài một số người cứ bê nguyên xi ngoại ngữ vào trang viết, trên chương trình phát sóng khiến khán, thính giả “bó tay chấm com”. Nhiều thuật ngữ đã được Việt hoá từ lâu như Ác-hen-ti-na, Bra-xin, a-xit, ba-zơ, can-xi... lại được thay bằng nguyên dạng hoặc gần dạng Anh, Pháp: Argentina, Brazil, acid, base, calcium... Còn cách đọc thì mỗi nơi một kiểu, chẳng hạn tên viết tắt của nhóm G7, G20 nơi đọc là “gờ bảy”, “gờ hai mươi”; nơi lại đọc là “giê bảy”, “giê hai mươi”; chữ GDP nơi đọc là “giê-đê-pê”, nơi đọc là “gi-đi-pi”; chữ CPI người thì đọc xê-pê-i, người đọc xi-pi-ai, v.v.
 Hiện các chữ cái tiếng Việt đang nhảy múa xoay quanh ba hệ thống thường chưa được thống nhất là “a-bờ-cờ, “a-bê-xê”, “ây-bi-xi” và cách phiên âm ra tiếng Việt. Ảnh hưởng của ngoại ngữ vô tình làm lệch chuẩn tiếng Việt. Chúng ta đều hiểu hệ “a-bờ-cờ’ là ngôn từ gốc để đánh vần ra tiếng Việt, nhất là với người bước vào học ngôn ngữ này. Ta đọc “bờ ô bô sắc bố” chứ không đọc “hay bi ô bô sắc bố”... Việc các chữ trong bảng chữ cái “nhảy múa” bằng cách gọi khác nhau đã làm tiếng Việt trở nên thiếu chặt chẽ và kém chính xác.  
Nhiều chuyên gia ngôn ngữ trên thế giới đã thừa nhận vẻ đẹp, sự trong sáng, phong phú của tiếng Việt. Đây cũng là công cụ đã giúp cho Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... và bao thế hệ văn nhân, hào kiệt viết nên những áng văn bất hủ. Sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhắc nhở: “Khi xã hội có nhiều người nói tiếng bồi, đó là một xã hội bị nô dịch về ngôn ngữ”. Là một quốc gia đầy tự hào với hàng ngàn năm lịch sử văn hiến, một đất nước anh hùng đấu tranh giải phóng dân tộc, đã có nền độc lập tự chủ, lẽ nào ta lại tự đưa mình vào cái vòng “nô dịch” về ngôn ngữ?
Thời gian trước đây đã có một số ý kiến của các nhà giáo dục, nhà khoa học nêu lên sự cần thiết có một Bộ Luật về ngôn ngữ để thống nhất cách nói, cách viết tiếng Việt. Bẵng đi, nay ít người đề cập lại vấn đề này. Khi ngôn ngữ đã được luật hoá, vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và sự tiếp nhận ngôn ngữ bên ngoài để làm giàu tiếng Việt sẽ đi vào thực chất và bền vững. Và đó chính là cách làm khoa học, đúng đắn để tiếng Việt thực sự là một ngôn ngữ quốc gia, một công cụ giao tiếp và tư duy hữu hiệu để phát triển đất nước.  
Đinh Hoàng