Làm thêm giờ và giá của sức lao động Ngày làm 8 giờ, tuần làm
6 ngày là mục tiêu đấu tranh của giai cấp công nhân cách đây hơn một trăm
năm. Mục tiêu đó hiện nay người lao động ở hầu khắp các quốc gia đã đạt được,
nhiều nơi ngày làm việc chỉ còn 6 tiếng, tuần 5 ngày (khoảng 1.900 giờ mỗi
năm). Không ít nước công nghiệp phát triển đang có mục tiêu tiếp tục hạ số
giờ và ngày lao động của công nhân dựa vào sự phát triển của khoa học công
nghệ và năng suất lao động. Một nghịch lí đang diễn
ra với nước ta, đó là cả doanh nghiệp và người lao động (NLĐ) đều “khát khao”
được tăng thêm giờ làm vì những mục tiêu khác nhau: Doanh nghiệp cần tăng ca
để nâng cao khối lượng sản phẩm, tiến độ sản xuất, tăng lợi nhuận; một bên
cần tăng thêm thu nhập để bảo đảm cuộc sống. Công nhân Nhà máy sản xuất giày và phụ liệu Tam Cường (thuộc Công ty TNHH Đỉnh Vàng, Hải Phòng) tập trung đòi quyền lợi tại cửa nhà máy Sự mong mỏi đó đã được
phần nào đáp ứng khi ngày 23/3 vừa qua, 100% thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã nhất trí thông qua nghị quyết về số giờ làm thêm trong năm. Theo đó, giờ
làm thêm mỗi tháng của NLĐ được nâng từ 40 lên tối đa 60 giờ, khống chế 300
giờ/năm.
Doanh nghiệp được tăng ca
cũng đồng nghĩa không cần tuyển dụng thêm một lực lượng lao động hay đổi mới
công nghệ để nâng cao năng suất; không bị áp lực tăng lương cho NLĐ dù mức
sống của họ dần trượt xuống (do lạm phát hằng năm) và mức sống đang dưới mức
tối thiểu. Với NLĐ hiện mức lương
chỉ bằng hoặc dưới mức sống tối thiểu, (có ý kiến cho rằng hiện đang dưới mức
sống tối thiểu 15%). Đây là lí do NLĐ luôn mong muốn được tăng ca, làm thêm
giờ, thậm chí coi đó như một ưu ái của chủ sử dụng lao động với mình. Thực
tiễn đang diễn ra việc công nhân nhảy việc sang nơi có chế độ tăng ca, làm
thêm giờ để tăng thêm thu nhập vì đồng lương quá thấp, không bảo đảm cuộc
sống vật chất. Với thời lượng 10-12 giờ làm thêm mỗi ngày, NLĐ sẽ không còn
thời gian cho những nhu cầu cuộc sống văn hóa, tinh thần khác. So sánh giữa quốc gia NLĐ
chỉ cần làm 6 giờ/ngày, 5 ngày/tuần với người làm 11 giờ/ngày (giả sử mức
sống tương đương về vật chất) thì đã thấy giá sức lao động cách nhau rất xa
(quá rẻ và rất đắt). Trước đây nhiều người tự
hào coi ta có thị trường lao động cạnh tranh với giá nhân công rẻ, một lợi
thế thu hút đầu tư nước ngoài. Nay ít người nhắc đến chuyện này nhưng đây vẫn
đang là thực tế không vui, một trong các nguyên nhân lựa chọn Việt Nam của
nhà đầu tư FDI. Thị trường những năm qua
có những mặt hàng bất ổn cần quỹ bình ổn để giá cả không tăng quá cao hay
giảm quá sâu. Trong nông nghiệp, chuyện giải cứu giá nông sản diễn ra xuân thu
nhị kì. Vậy giá của sức lao động
trên thị trường của ta có phải là vấn đề đáng quan tâm, cũng cần “giải cứu”? “Lợi ích hài hòa, khó
khăn chia sẻ”, đó là mong mỏi được lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhiều lần nhắc tới
khi làm việc với các doanh nghiệp cả trong nước và FDI. Kì vọng tại diễn đàn
Quốc hội, vấn đề này sẽ được quan tâm nhiều như chuyện tranh luận tăng thêm
bao nhiêu giờ làm việc mỗi năm của NLĐ trong những năm qua./. Bài bình luận đăng Tạp chí Người cao
tuổi ngày 30/3/2022 Đinh Hoàng |