Chùa Bổ
Đà - nét đẹp ẩn mình dưới núi Phượng Hoàng
Tên đầy đủ là chùa Quan
Âm ở núi Bồ Đà, người dân quanh vùng thường gọi tắt là chùa Bổ, nằm phía
Bắc sông Cầu, tọa lạc ở Bắc chân núi Phượng Hoàng (núi Bồ Đà) thuộc thôn
Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên,
tỉnh Bắc Giang. Đây là một di tích lịch sử tiêu biểu của tỉnh Bắc
Giang, là Trung tâm Phật giáo lớn của dòng Lâm Tế. Chùa thờ Tam giáo (Phật giáo - Khổng giáo - Lão giáo). Ngoài
ra trên núi Bổ Đà còn có đền thờ Thánh Hóa (tức Thạch Tướng Đại Vương có công
giúp vua Hùng thứ 16 chống giặc ngoại
xâm).
Trong địa phận Tiên Lát,
cạnh dòng Như Nguyệt trong xanh có ba ngọn núi lớn kề vai soi bóng, mang tên
chung là núi Bồ Đà. Ngọn cao nhất là Phượng Hoàng Sơn, ngọn thứ hai là Mã Yên
Sơn và ngọn thứ ba là Kim Quy Sơn. Năm 1971 nhà văn Nguyên Hồng khi tu ẩn tại
chùa đã viết về vẻ đẹp nơi đây: Bốn bề
phong cảnh lạ thay/Bồng Lai kia, cũng thế này mà thôi.
Xưa, trong làng có vợ chồng người tiều phu tên gọi Minh
Đà hàng ngày vào rừng đốn củi nuôi thân, đến
40 tuổi vẫn chưa có con trai. Một hôm cắp rìu lên núi kiếm củi bỗng thấy có
một gốc thông già, ông lấy búa bổ vào gốc cây thì kì lạ thay có một đồng tiền
bằng vàng nảy ra. Ông liền bổ một thôi vào gốc cây, được cả thảy 32 đồng tiền
vàng. Ngạc nhiên trước sự li kì, ông liền quỳ xuống mà nguyện rằng: Nếu như
linh ứng cho xin mụn con trai, được như nguyện sẽ xây chùa, tô tượng, sớm tối
khói hương phụng phật. Quả nhiên sau đó ứng
nghiệm, vợ người tiều phu sinh được con trai. Sau người tiều phu dựng một
ngôi chùa lợp gianh, đúc tô một pho tượng Quan Âm Tống Tử, ngày ngày hương
khói. Nghe chuyện nhiều người đến lễ bái, cầu việc gì cũng biến ứng. Dần sau chùa
trở thành nơi du khách tâm linh dập dìu vãng cảnh, chiêm bái.
Công trình, hiện vật và thư tịch còn lại
ở chùa cho biết, chùa xây từ thời nhà Lý (thế kỉ 11), giai đoạn lịch sử phật
giáo phát triển cực thịnh với nhiều chùa chiền được xây dựng, nhất là tại đất
Tổ đức vua Lý Công Uẩn. Thời Lê Trung hưng, triều vua Lê Dụ Tông (1705-1728)
chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Quần thể
chùa là tập hợp di tích gồm chùa chính (Tứ Ân Tự) cùng hai đền thờ Đức Thánh
Hóa và Thạch Tướng Đại Vương. Gần một trăm gian chùa xây bằng các vật
liệu dân gian: gạch nung, ngói, tiểu sành... Các bức tường, cổng và một số
công trình khác được xây hoàn toàn bằng đất nện theo lối chình tường độc đáo.
Cổng chùa nền lát đá muối, vòm cổng mang dáng dấp gác chuông. Nhiều bức tường
được xây bằng tiểu sành tạo vẻ thâm nghiêm, trầm mặc, gần gũi với vùng thôn
quê đồng bằng Bắc Bộ. Khu vườn tháp có nét độc đáo, được đánh giá đẹp và
lớn nhất Việt Nam với 104 ngôi mộ tháp là nơi tàng lưu xá lị, tro cốt nhục than,
nơi yên nghỉ của 1219 nhà sư, cao tăng, tăng ni. Theo sư trụ trì Đại Đức Tự
Tục Vinh, họ là huynh đệ cùng thiền phái Lâm Tế, chung theo tu một thầy,
trọng tình và thân thiết với nhau lúc còn sống, muốn khi được về cõi cực lạc
vẫn luôn bên nhau tại chốn thiền.
Một góc khu mộ tháp
Nhiều người đã đến chùa Bổ Đà song không
phải ai cũng biết nơi đây còn lưu giữ bộ ván kinh Phật cổ nhất Việt Nam
được khắc trên gỗ thị. Gần 2.000 tấm mộc bản ghi 24 bộ kinh, tiêu biểu là ba
bộ kinh: Lăng Nghiêm Chính Mạch, Yết Ma Hội Bản, Nam Hải Kí Quý. Ngoài ra còn
các bộ như Chư Kinh Nhật Tụng, Sa Di Quyển Thượng, Quyển Hạ, Hộ Quốc Kinh v.v.
Những di vật Phật học đặc biệt quý giá này là để phục vụ việc đào tạo, truyền
bá kinh Phật. Đây là nơi kế truyền, các vị tổ sư khai trường thuyết pháp, đào
tạo tăng ni, hàng năm kết hạ an cư tăng ni, tín đồ tham thiền học đạo khá
đông. Trong chùa còn lưu giữ 41 pho tượng Phật làm bằng gỗ từ thời Lê khá
phong phú. Tượng Phật ở đây không chỉ có giá trị lịch sử về sự phát triển của
đạo Phật thiền phái Lâm Tế,
nó còn là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc đa dạng, đặc sắc, được chế tác
bởi những bàn tay nghệ nhân tài hoa xứ Kinh Bắc.
Sư trụ trì Đại Đức Tự Tục Vinh giới
thiệu mộc bản kinh Phật
Vãn cảnh Bổ Đà khách hành
hương bị hút hồn bởi vẻ đẹp cổ kính, nguyên sơ của chốn linh địa Phật giáo.
Đại Đức Tự Tục Vinh trụ trì chùa từ năm 2000, là vị trụ trì thứ 11, ông say
sưa kể về ngôi chùa, giúp chúng tôi hiểu rõ lịch sử Bổ Đà tự, nhận ra nhiều
điều chí lí, thiên lương của tình nghĩa trong cõi Phật. Chùa Bổ Đà đã kế tục
các vị tăng già nhiệt tình cách mạng, yêu nước. Nhiều vị tăng cởi áo cà sa
tòng quân, noi theo truyền thống phụng phật yêu nước của ông cha, cùng Nhân
dân khởi nghĩa, chống ngoại xâm. Kháng chiến chống Pháp, chùa có 12 vị tham
gia trong đó 4 vị hi sinh thân mình cho Tổ quốc. Kháng chiến chống Mỹ chùa
tiễn 6 vị lên đường tòng quân đánh giặc, 2 vị hi sinh tại chiến trường...
Đúng như nhà văn Nguyên Hồng đã viết về truyền thống cách mạng của các thế hệ
Sơn môn chùa Bổ Đà: Cởi áo Cà Sa
mặc chiến bào/Ngừng chuông niệm Phật cầm binh đao/Ra đi quyết rửa thù cứu
nước/Vì nghĩa quên thân hiến máu đào... Sư cụ Đức Chính là một
điển hình cho Sơn môn Bổ Đà, với thành tích yêu nước cụ được Nhà nước tặng
Huân chương kháng chiến hạng Ba. Ngày nay, các vị tăng ni giáo phái vẫn dung
giữ truyền thống đó trên nền tảng đạo đức, tư tưởng từ bi, hỉ xả, luôn đồng
hành cùng dân tộc, góp sức xây dựng quê hương.
Lễ hội chùa Bổ vào các ngày 16, 17, 18 tháng 2
âm lịch hàng năm. Nhưng, muốn được lạc vào cõi thiền tiên thanh tịnh và chiêm
ngưỡng cảnh quan tươi đẹp vùng đất Kinh Bắc bên dòng Như Nguyệt thơ mộng, du
khách hành hương về chùa tiết cuối hạ, đầu thu là đẹp nhất. Chỉ cách Hà Nội
chừng 40km nhưng nay vẫn ít người biết đến một ngôi chùa cổ kính, đẹp đến nao
lòng, ẩn mình dưới chân núi Phượng Hoàng - Chùa Bổ Đà.
Đinh
Hoàng
Bài đăng Báo Người cao tuổi
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét