“Ông nghè” thời nay
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai/Cũng gọi ông nghè có kém
ai! Chuyện
danh vọng khoa bảng từ thời cụ Nguyễn Khuyến cuối thế kỉ XIX tưởng là cũ nhưng
xem ra nay vẫn mang tính thời sự. Nhiều tiến sĩ (TS) ngày nay cũng na ná “tiến
sĩ giấy” ngày xưa, khác chăng là ở hình thức mà thôi.
Thời xưa, người đỗ ông nghè
là đỉnh cao làm rạng danh dòng tộc. Có một số điểm khác trong chuyện học hành
thi thố xưa và nay: Thí sinh xưa dùi mài kinh sử, cơm nắm, gạo thắt lưng, vai
mang lều chõng ứng thí. Nay có hình thức “công nông” vừa học vừa làm, thí
sinh ngồi phòng lạnh, đi xe hơi tiền tỉ, có trợ lí xách cặp đưa đến tận giảng
đường. Xưa học hành thi cử đỗ cao sẽ được bổ làm quan. Nay làm quan rồi mới
đi học lấy bằng TS. Xưa có bằng TS khó đến nỗi giỏi như cụ Nguyễn Khuyến mà 3
phen, gần chục năm lều chõng mới đạt Hoàng giáp. Nay có bằng TS dễ như trở
bàn tay, không hẳn cần trí cao tuệ sâu, miễn là có khả năng tài chính. Vì vậy
mà xưa TS hiếm hoi như lá mùa Thu thì nay lại nhiều tựa hoa nở mùa Xuân.
Câu
chuyện Học viện Khoa học Xã hội cứ 1 ngày 3 giờ 55 phút cho “ra lò” một TS đã
gây xôn xao dư luận. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm học 2014 -
2015, tổng quy mô đào tạo tiến sĩ của nước ta là 10.352 nghiên cứu sinh.
Nghĩa là 2 năm sau sẽ có thêm ít nhất 8.500 tiến sĩ mới. Cả nước có 24.300 TS
và 101.000 thạc sĩ (năm 2014). Nhìn vào con số trên phần nào hiểu nay TS “ra
lò” nhanh và nhiều thế nào.
Hình minh họa
Với các nước phát triển
ở châu Âu, Mỹ, người có tấm bằng TS luôn gắn với một công trình khoa học đóng
góp xứng đáng cho xã hội, từ công trình nghiên cứu đó họ được công nhận danh bậc
khoa học. Đáng buồn Việt Nam có số TS nhiều nhất khu vực nhưng số công trình,
bài báo đăng trên tạp chí khoa học tên tuổi quốc tế mỗi năm chỉ 5 - 6 cái,
cách xa so với Singapo (647), Malaysia (161), Thái Lan (53). Giáo sư, TS nước
ta nhiều nhất Đông Nam Á nhưng không có trường ĐH Việt Nam nào được đứng
trong bảng xếp hạng 500 trường ĐH hàng đầu thế giới (khu vực Đông Nam Á có
Singapo và Malaysia).
Chỉ
vài con số trên đã có thể hiểu chất lượng thực của đội ngũ TS ở nước ta.
Chính sự “nở rộ” TS đã làm giảm lòng tin của xã hội vào danh từ cao quý này.
Có TS nọ rất giỏi, bằng ở nước ngoài nhưng khi về nước không bao giờ xưng
mình là TS. Ông đã gặp những TS “kêu to” nhưng năng lực kém xa một kĩ sư,
trình độ tiếng Anh thì chưa đạt bậc A. Có lẽ vì vậy ông ngại mọi người nghĩ
mình cũng giống những “TS giấy” như thế.
Một thực trạng không vui là ở ta quá
nhiều nhà khoa học nhưng lại không làm khoa học, nhiều TS chỉ làm lãnh đạo,
quản lí hành chính ở cơ quan, địa phương, doanh nghiệp (trong tổng số hơn 24
nghìn TS thì chỉ khoảng 12 nghìn tham gia nghiên cứu phát triển). Thực tế cho
thấy cán bộ lãnh đạo không nhất thiết phải có tấm bằng TS hay chức danh khoa
học cao, trình độ chuyên sâu, trừ phi đó là viện nghiên cứu, nhà trường... Phải
chăng cơ chế bổ nhiệm, cất nhắc cán bộ quá câu nệ bằng cấp đã góp phần tạo
nên thực trạng trên?
Hai câu thơ của cụ Tam
Nguyên Yên Đổ có thể phần nào nói lên giá trị thật của những bằng “TS giấy” ngày
nay: Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ/ Cái
giá khoa danh ấy mới hời!
Đinh
Hoàng
(Bài đăng
Báo Người cao tuổi ngày 6/5/2016)
|
Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét