Thứ Tư, 28 tháng 7, 2021

Tham nhũng chất xám

 

 Minh bạch “tài sản” trí tuệ

Việc “lùm xùm” chất lượng tiến sĩ không chỉ có ở Việt Nam ta. Mới đây tại nước Đức, một Bộ trưởng Liên bang về gia đình là bà Franziska Giffey thuộc Đảng Xã hội dân chủ Đức (SPD) đã bị cho là đạo văn để hoàn thành luận án tiến sĩ. Sau nhiều tuần tranh luận, bà này đã phải từ chức Bộ trưởng.

Trước đó cũng tại nước này, vào năm 2011 Bộ trưởng Quốc phòng Liên bang Karl-Theodor zu Guttenberg - một ngôi sao đang lên, ứng viên Thủ tướng tương lai của Đảng Liên minh Xã hội Kito giáo cũng bị tố đạo văn. Một vị giáo sư luật học đã công khai phê phán ông này đạo văn trong luận án tiến sĩ của mình. Sau đó đại học Bayreuth đã tước danh hiệu tiến sĩ của ông. Trước sự phê phán của dư luận, tháng 3/2013, ông này đã từ chức…

Việt Nam ta cũng từng có một số vụ đạo văn tiến sĩ bị khiếu nại. Đối tượng bị nghi ngờ “đạo văn” có cả cán bộ ở viện khoa học, trường đại học, cao đẳng và lãnh đạo địa phương. Ngoài vụ một cán bộ Trường Cao đẳng Cần Thơ bị thu hồi bằng và cho nghỉ việc sau khi phát hiện “đạo văn” 100% từ luận án của một đồng nghiệp khác, đa số các vụ đạo văn được thanh minh, giải thích mập mờ, dạng “có thiếu sót trong việc trích dẫn các tài liệu tham khảo, chưa đúng theo chuẩn mực quốc tế” v.v.

Luận văn, những bài báo khoa học như những “tài sản” trí tuệ của các ứng viên tiến sĩ, thạc sĩ. Chất xám từ nghiên cứu ghi nhận, khẳng định năng lực, trình độ khoa học của cá nhân được cụ thể hóa trong các công trình khoa học, trên bài viết đăng tạp chí. Tuy nhiên, những thứ đó người ta lại hoàn toàn có thể “mượn”, thuê thậm chí “đạo” của người khác.

Thông thường những kiến thức “thuê mượn” sẽ ít người biết đến ngoài người hướng dẫn vì luận văn bảo vệ xong chủ yếu cất vào ngăn bàn có mấy ai mượn đọc lại. Có chăng những bài báo công khai thì cũng chỉ chủ nhân của tài sản trí tuệ bị “đạo” phát hiện ra và có ý kiến, khiếu nại.

Luật Phòng chống tham nhũng có điều khoản riêng về công khai tài sản thu nhập. Chính phủ cũng có Nghị định số 78/2013/NĐ-CP cụ thể hóa điều khoản công khai tài sản thu nhập của Luật Phòng chống tham nhũng. Nên chăng cũng cần thêm quy định của luật pháp về công khai tài sản trí tuệ để chống “tham nhũng” chất xám? Theo đó các luận án tiến sĩ, thạc sĩ, bài báo quốc tế phục vụ cho bảo vệ luận án của cá nhân sẽ được công khai trên cổng thông tin điện tử của các cấp, các ngành. Đây vừa là cơ sở dữ liệu khoa học để phục vụ công tác nghiên cứu, tham khảo chung, vừa để vinh danh cá nhân đã có những thành tựu trong nghiên cứu khoa học. Người được công khai thành tựu của mình sẽ thêm tự hào, nếu đó thực sự là trí tuệ của họ.

Việc công khai, minh bạch công trình khoa học làm nên học vị sẽ là công cụ nhằm loại trừ các hành vi gian dối nếu có, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác đào tạo cao học, một vấn đề đang nóng hiện nay./.

Đinh Hoàng

Bài bình luận đăng Tạp chí Người cao tuổi ngày 28 tháng 07 năm 2021

Thứ Hai, 26 tháng 7, 2021

Phòng chống Covid-19

 

Cần chuẩn bị cho chiến lược tiêm vaccine tổng lực

 Tại một phường giữa trung tâm Thủ đô, khi tổ dân phố đăng thông báo lịch đăng kí tiêm vaccine phòng Covid-19 trong một ngày, tôi cứ lo sẽ có cảnh chen chúc tấp nập và nguy cơ lây nhiễm. Thật bất ngờ, với một phường có hàng nghìn dân, mỗi tổ dân phố trên trăm hộ mà chỉ lác đác số người đến đăng kí.

Với mục tiêu toàn quốc tiêm chủng đạt trên 70% dân số, có thể hình dung tối thiểu mỗi gia đình phải quá nửa số nhân khẩu cần được tiêm.


Ảnh minh họa

Tại các nước phát triển hàng đầu hiện cũng chỉ có Vương quốc Anh đạt 88% và khoảng chục nước đạt 50-65% dân số tiêm phòng vaccine Covid-19. Con số tiêm chủng đạt 70% dân số cho mũi đầu tiên là “mơ ước” với hầu hết các quốc gia, tỉ lệ mũi thứ hai lại càng thấp hơn. Nhiều nước đã phải đưa ra những phần thưởng vật chất, ưu đãi về chính sách để người dân tích cực tiêm chủng.

Con số 70% dân số được tiêm phòng Covid-19 đang là thách thức với mọi quốc gia trong đó không loại trừ Việt Nam. Hiện nay việc tiếp cận và sở hữu nguồn vaccine của ta đang rất khó khăn, số lượng nhỏ giọt nên vấn đề về số lượng người tiêm chủng chưa được đặt ra. Nếu thời gian tới, trong một tháng mà đạt số lượng hàng chục triệu liều vaccine thì lượng người được tiêm và sẵn sàng đi tiêm sẽ không còn là chuyện nhỏ. Thời hạn sử dụng không thể kéo dài, số lượng kho lưu trữ bảo quản có hạn không cho phép “dềnh dang”, muốn tiêm lúc nào cũng được. Khẩu hiệu hiện nay trong vùng dịch là “ở nhà là yêu nước”. Khi đến giai đoạn cao điểm cần tiêm chủng khi đủ nguồn vaccine có lẽ sẽ chuyển thành “đi tiêm phòng là yêu nước”! Có vaccine mà không tiêm kịp, hết hạn phải hủy bỏ sẽ là sự lãng phí khó chấp nhận. Không đạt tỉ lệ miễn dịch cộng đồng rất khó đưa cuộc sống trở lại bình thường và thiệt hại về kinh tế, xã hội lại càng lớn.

Mấy ngày qua dư luận xôn xao chuyện cô gái trẻ khoe được Bệnh viện Hữu Nghị tiêm phòng do có mối quan hệ riêng. Rồi một phụ nữ được Bệnh viện Xanh Pôn ưu tiên tiêm cũng do mối quan hệ riêng. Những tiêu cực trong đời sống, nhất là tệ lợi dụng chức quyền, quan hệ… nhằm tư lợi cần được phê phán, ngăn chặn bởi nó là nguồn cơn của bất công, xói mòn niềm tin của người dân vào hệ thống công quyền. Hơn lúc nào hết, niềm tin của người dân vào chiến lược vaccine và sự công bằng khi triển khai là yếu tố quyết định thắng lợi.

Trước phản ánh của báo chí, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Y tế và các cơ quan chức năng rà soát, kiểm tra, làm rõ các trường hợp tiêm vaccine không cần đăng kí nêu trên. Mong rằng cơ quan quản lí và hai bệnh viện trên sẽ xử lí nghiêm túc để xây dựng, giữ vững niềm tin và sự ủng hộ của người dân trong triển khai chiến lược vaccine thời gian tới.

Dù lượng vaccine Covid-19 của ta có được chưa nhiều nhưng lúc này cũng không còn quá sớm cho một chiến dịch tuyên truyền để vận động người dân sẵn sàng đi tiêm. Chiến lược vaccine có thể đã đến giai đoạn tổng lực để sớm chấm dứt tình trạng “dập dình đóng, mở” với thiệt hại không thể đong đếm./.

Đinh Hoàng

Bài bình luận đăng Tạp chí Người cao tuổi ngày 24 tháng 07 năm 2021

 

Thứ Năm, 22 tháng 7, 2021

Quản lí nhà nước

 

 Tách, nhập cần cách nhìn toàn diện

Không biết trên thế giới có quốc gia nào diễn ra việc tách, nhập địa giới hành chính các cấp nhiều và liên tục như Việt Nam ta?

Mỗi lần chia tách, sáp nhập địa giới hành chính thường ta chỉ quan tâm cái được mà chưa nhìn sâu sắc và toàn diện về những thiệt hại, mất mát cả về vật chất và tinh thần.

Cách nhìn nhận trong quản lí của hôm nay ắt phải khác với mười năm, hai mươi năm trước. Cách đây 30 năm một cán bộ cấp tỉnh muốn nắm chắc tình hình cơ sở phải mất nửa ngày trên chiếc xe U-oát cùng những cung đường bụi bặm để đến tận nơi. Nay thì ngồi trong phòng cũng có thể nhìn trực tiếp, nắm được tình hình đang diễn ra tại cơ sở.

“An cư, lạc nghiệp”, ổn định là tiền đề của phát triển, quy luật đó đúng với cả gia đình, tổ chức và xã hội.

Một thời duy ý chí, muốn đi lên sản xuất lớn thì cái gì cũng phải lớn nên đã hình thành những địa phương liên vùng. Khi nhận ra bất cập, sửa chữa thì thiệt hại đã xảy ra. Sau đó là tiến trình ngược lại, chia tách để có 64 tỉnh thành rồi một vụ sáp nhập cấp tỉnh cuối để có con số 63 cùng một Thủ đô diện tích vào hàng lớn trên thế giới.

 

Chùa Tây Phương (Sùng Phúc tự) tại xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội là một ngôi chùa cổ nổi tiếng với những nét đặc sắc trong kiến trúc và nghệ thuật.

Trong các đề án chia tách, sáp nhập, tiêu chí quan trọng nhất luôn được đưa ra, đó là diện tích và dân số. Song có yếu tố rất quan trọng trong phát triển lại chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí bỏ qua, đó là văn hóa, truyền thống, phong tục, tập quán, những thứ hàng nghìn năm mới có được. Diện tích, dân số là yếu tố tác động trực tiếp, dễ nhận thấy nhất đối với công tác quản lí hành chính. Nhưng nếu chỉ nhìn vào thành tố này sẽ dẫn đến tư duy và hành động theo hướng cộng trừ cơ học đơn thuần trong sắp xếp bộ máy. Thời cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay đôi khi diện tích, dân số không phải là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển. Ví dụ, khoa học công nghệ, chất lượng nhân lực có thể giúp tinh giản bộ máy còn hiệu quả hơn một sự sáp nhập đơn thuần.

Hà Nội mở rộng thêm không gian của toàn tỉnh Hà Tây cho đến nay cái được lớn nhất là gì? Chưa có đánh giá sâu nào công bố nhưng điều dễ nhận thấy, đó là không gian mở rộng nội đô và tăng trưởng của bất động sản phía Tây.

Hà Nội có văn hóa Tràng An. Hà Tây có văn hóa xứ Đoài. Hai nền văn hóa có nét đặc trưng riêng, không thể sáp nhập cùng địa giới hành chính hoặc hòa tan. Có phải vì vậy mà cả văn hóa Hà Nội và văn hóa xứ Đoài chưa phát triển xứng tầm kể từ sau khi sáp nhập đến nay? Biết đâu, nếu để lại một không gian riêng vùng Sơn Tây thì không những vùng văn hóa xứ Đoài nay phát triển tốt hơn mà còn có thể thêm một địa phương vệ tinh tăng trưởng ngang tầm với Bắc Ninh, Vĩnh Phúc… những tỉnh thuộc top đóng góp hàng chục nghìn tỉ đồng mỗi năm vào ngân sách trung ương.

Mong rằng những đề án chia tách, sáp nhập trong tương lai sẽ có cách nhìn thấu đáo, nhất là vị trí của văn hóa, khoa học công nghệ... Một địa phương “đúng kích cỡ” là quan trọng song tri thức, văn hóa mới là nền tảng của sự phát triển./.

Đinh Hoàng

Bài bình luận đăng Tạp chí Người cao tuổi ngày 22 tháng 07 năm 2021

Thứ Ba, 20 tháng 7, 2021

Đổi mới giáo dục - Đào tạo

 

 “Lò ấp” liệu có quay lại?

Dư luận từng xôn xao câu chuyện “lò ấp” tại một viện khoa học danh tiếng trong 2 năm 2015 và 2016 cho “xuất lò” 700 tiến sĩ và 2.811 thạc sĩ. Và, “lò ấp” không chỉ có tại một viện khoa học trên…

Trước thực trạng đó Bộ Giáo dục & Đào tạo (GD&ĐT) đã ban hành Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo sau đại học, trong đó quy định luận án tiến sĩ phải công bố 2 bài báo trong đó có 1 bài đăng trên tạp chí thuộc danh mục ISI/Scopus (bài kia có thể đăng trong nước) hoặc 2 bài báo ở nước ngoài.

Tranh biếm của họa sĩ Lý Trực Dũng

Theo ý kiến một số nhà khoa học, chuẩn đầu ra theo yêu cầu của Thông tư số 08/2017/TT-BGDĐT cũng chưa phải là cao so với khu vực song đã khuyến khích hình thành xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh và công bố quốc tế trong các trường đại học. Nước ta từ một nước gần như “đội sổ” về công bố quốc tế trong khu vực, năm 2020 đã vươn lên đứng thứ 49 trên thế giới và đứng thứ 3 ở ASEAN về công bố quốc tế. 

Khi xem xét đào tạo tiến sĩ tại các nước đang phát triển như Việt Nam, câu hỏi thường được đặt ra là luận án cần bao nhiêu công bố quốc tế thì được bảo vệ vì công bố quốc tế chính là sự đánh giá khách quan nhất đối với chất lượng luận án khi trình độ khoa học của ta chưa cao, chưa tự thẩm định được chất lượng nghiên cứu. Các nước đang phát triển thường quy định luận án tiến sĩ phải có công bố quốc tế trong những tạp chí quốc tế có sự bảo đảm chất lượng.

Cứ ngỡ chuẩn tiến sĩ tại Việt Nam so với các nước còn khoảng cách phải phấn đấu thì vừa qua Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT về Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ mà nhiều người cho là đã “hạ chuẩn”. Điểm mấu chốt rất quan trọng đã được “hạ” là nghiên cứu sinh tiến sĩ có thể chỉ cần các bài báo đăng trên tạp chí khoa học trong nước. Theo chuẩn mới này, nhiều người cho rằng nó quay lại thời kì cách đây 20 năm và chất lượng đào tạo tiến sĩ khó mà nâng lên.

Giải thích về lí do thay đổi chuẩn công bố quốc tế trong thông tư trên, một lãnh đạo Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT) đã chia sẻ với báo chí rằng “việc mặc định cứ bài đăng báo quốc tế là tốt, chất lượng bài đăng tạp chí trong nước là thấp là một định kiến cần được nhìn nhận lại” và “thực tiễn, chất lượng của nhiều tạp chí ngày càng gia tăng, dần hướng tới các chuẩn quốc tế…”.

Cách giải thích này khá khôn khéo khi kết hợp giữa “nâng tầm” các tạp chí trong nước (không nêu tạp chí nào), với “hạ tầm” tạp chí quốc tế, trong khi không nói rõ nó có nâng chất lượng đầu ra đào tạo tiến sĩ hay không.

Hiện công tác đánh giá, bổ nhiệm cán bộ của ta vẫn chưa thoát khỏi tư duy và các quy định “nặng” về bằng cấp. Hạ chuẩn đào tạo tiến sĩ là cơ hội tuyệt vời cho những “lò ấp” tiến sĩ nhộn nhịp trở lại. Khi việc đào tạo cao học hạ chuẩn thì sẽ quay lại vấn nạn tiến sĩ có bằng thật nhưng trình độ giả, có bằng tiến sĩ nhưng không làm công việc của tiến sĩ. Và, chất lượng tiến sĩ sẽ thụt lùi là điều khó tránh!/.

 Đinh Hoàng

Bài bình luận đăng Tạp chí Người cao tuổi ngày 20 tháng 07 năm 2021

Thứ Hai, 19 tháng 7, 2021

Văn hóa

 

 Công chúng và quyền lực hội đồng

Nghệ sĩ Ưu tú (NSƯT) Bùi Cường qua đời vào tháng 8/2018. Gần một năm sau, ngày 22/7/2019 ông có tên trong danh sách truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân (NSND) trong Nghị quyết 54/NQ-CP ngày 18/7/2019 đề nghị xét tặng, truy tặng danh hiệu NSND, NSƯT cho 199 nghệ sĩ. Thực ra năm 2018 ông cũng nằm trong danh sách xét tặng danh hiệu NSND nhưng đã không có tên trong danh sách được phong tặng.

Nghệ sĩ Văn Hiệp mất ngày 9/4/2013, sáu tháng sau, vào ngày 10/10 gia đình “trưởng thôn” Văn Hiệp mới chính thức được nhận danh hiệu NSƯT thay ông.

May mắn hơn, nghệ sĩ Trần Hạnh được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSƯT vào năm 1984 và được đặc cách xét tặng danh hiệu NSND vào năm 2018. NSND Trần Hạnh qua đời vào 4/3/2021.

Điểm qua một vài cái tên nghệ sĩ mà tài năng của họ như tạc vào tâm trí và sự mến mộ của công chúng. Vậy mà con đường đến với danh hiệu lại vô cùng khó khăn. Danh hiệu cao quý chỉ đến với họ khi đã sang thế giới bên kia hoặc vài năm tháng cuối đời. Đối với công chúng, các nghệ sĩ trên đã là nghệ sĩ của Nhân dân trước khi được phong tặng danh hiệu NSND. Với các nghệ sĩ, sự tin yêu, mến phục của công chúng quý giá hơn nhiều những danh hiệu và phần thưởng.

Đạo diễn, NSND Trần Văn Thủy

 Con đường để có danh hiệu của các nghề sĩ tài năng, đức độ khó khăn bởi nhiều lí do. Với nhân cách tự trọng, các nghệ sĩ thường tránh tham dự những cuộc thi, nhường cho lớp trẻ phấn đấu và thể hiện. Thế là đến khi xét thưởng hay phong tặng danh hiệu họ chẳng thể có những giải vàng, giải bạc… trong “kho” thành tích. Còn Hội đồng xét duyệt cứ theo “ba rem” tiêu chuẩn mà bỏ phiếu.

Mấy ngày qua dư luận lại dấy lên ý kiến trái chiều xung quanh việc hai đạo diễn lớn của điện ảnh Việt Nam trong thể loại phim tài liệu là NSND Trần Văn Thủy và NSND Đào Trọng Khánh không có trong danh sách trình Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Lí do là hai ông không đạt đủ 80% số phiếu của Hội đồng chuyên ngành. Nói tới hai “cây đại thụ” của mảng phim tài liệu Việt Nam người ta không thể không nhớ tới những bộ phim lay động lòng người như “Chuyện tử tế”, Hà Nội trong mắt ai”, “Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai”, “Những người dân quê tôi”… (Trần Văn Thủy); “Việt Nam - Hồ Chí Minh”, “1/50 giây cuộc đời”, “Vũ nữ Trà Kiệu”, “Truyền kỳ sự thật”, “Hình bóng tổ tiên”… (Đào Trọng Khánh). NSND Đào Trọng Khánh còn là người viết lời bình cho hai phim “Hà Nội trong mắt ai” và “Chuyện tử tế”. Hai NSND này đã không vượt qua “ải” Hội đồng. Với Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ đợt 6 này gồm 23 người, chỉ cần bốn năm lá phiếu là có thể loại bỏ các tài năng mà công chúng tin tưởng, hâm mộ.

Thực trạng “độ vênh” giữa Hội đồng và công chúng nhiều năm qua dẫn đến đợt xét tặng danh hiệu, giải thưởng Nhà nước lần nào cũng để lại dư luận trái chiều. Tại sao không xây dựng một thiết chế để công chúng cũng có “lá phiếu” của mình trong mỗi khi xét tặng danh hiệu cho những “người của công chúng”?

Đinh Hoàng

Bài bình luận đăng Tạp chí Người cao tuổi ngày 17 tháng 07 năm 2021

Thứ Sáu, 16 tháng 7, 2021

Nghiên cứu - Trao đổi

 

Nhìn trong lịch sử thế giới về khái niệm “xã hội dân sự”

Lâu nay đôi khi được nghe cụm từ mà những thế lực bất mãn, chống đối, không thiện cảm với nhà nước ta thích nêu lên, đó là “xã hội dân sự”.

Vậy “xã hội dân sự” là gì? Lịch sử hình thành hiện thực hóa khái niệm “xã hội dân sự” trên thế giới hiện đại ra sao?

Theo trang Wikipedia, xã hội dân sự cấu thành từ tổng thể của các tổ chức xã hội và dân sự tự nguyện mà các tổ chức này tạo nên cơ sở của một xã hội tự vận hành, khác với các cấu trúc quyền lực của một nhà nước (bất kể hệ thống chính trị của nhà nước này thuộc kiểu gì) và các thể chế thương mại của thị trường. Thuật ngữ xã hội dân sự xuất hiện lần đầu tiên ở châu Âu vào thế kỉ XVI và phổ biến vào thế kỉ XVIII.

Xã hội dân sự bao gồm không gian gia đình và lĩnh vực tư nhân, được gọi là “khu vực thứ ba” của xã hội, phân biệt với chính phủ và kinh doanh. Đôi khi thuật ngữ xã hội dân sự được sử dụng theo nghĩa tổng quát hơn, là “các yếu tố như tự do ngôn luận, tư pháp độc lập... để tạo nên một xã hội dân chủ”.

Edmund Burke (nhà triết học người Ireland, nhà sáng lập tư tưởng của chủ nghĩa bảo thủ hiện đại), Alexis de Tocqueville (chính trị gia Pháp) và cả những nhà trí thức Nga từ thế kỉ XVIII đã cho xã hội dân sự là nền tảng căn bản cho nền dân chủ. Song một số nhà chính trị, triết gia tư sản khác lại lưu ý rằng các tổ chức xã hội dân sự đã thu được một số lượng đáng kể quyền lực chính trị thông qua các hoạt động của họ mà không có người trực tiếp bầu hoặc bổ nhiệm họ. Partha Chatterjee (một nhà khoa học chính trị và nhân chủng học người Ấn Độ) đã lập luận rằng, trong hầu hết các đất nước, “xã hội dân sự vẫn chỉ là đại diện cho quyền lợi của một nhóm nhỏ”. Khi nó chỉ đại diện cho quyền lợi số ít, khó có thể sẽ mang lại dân chủ thực sự.

Lênin cho rằng xã hội dân sự là thứ cản trở nền chuyên chính vô sản. Ông tin tưởng rằng: “Phạm vi công cộng trong xã hội xã hội chủ nghĩa thì phải thống nhất và duy nhất” và gạt bỏ các tổ chức xã hội dân sự, cho đó là tư tưởng tư sản. Người Bolshevik xem những tổ chức, công đoàn độc lập là tác nhân gây ra sự chia rẽ quan điểm trong xã hội. Thật ra những người Bolshevik không thích những tổ chức độc lập bởi vì chúng đòi hỏi việc con người tự quyết định cuộc sống riêng tư của họ bất chấp khuôn khổ quản lí của nhà nước, bởi vì chúng khuyến khích những tư tưởng độc lập và chúng làm cho con người cá nhân nảy sinh nhiều thái độ mâu thuẫn đối với quyền lực của nhà nước.

Trong thời kì Cách mạng Tháng Mười, Đảng Bolshevik là đảng chính trị đầu tiên có mục tiêu dứt khoát cấm bất cứ tổ chức nào mà không được họ trực tiếp lập ra và không trung thành với họ. Tại Liên Xô, ngay cả những tổ chức phi chính trị cũng bị cấm, bởi vì Lênin tin tưởng rằng “tất cả các tổ chức tự nhiên là chính trị; nếu họ không làm chính trị thẳng thắn thì cũng làm chính trị bí mật”.

Ngay cả các nhà Marxist chính thống cũng ưa thích tự do mậu dịch hơn là tự do lập hội, kể cả lập ra những hội thể thao phi chính trị hay các hội văn hóa. Điều này là đúng như vậy dưới thời Lênin, Stalin, Krushchev và Brezhnev. Mặc dù nhiều thứ đã thay đổi trong lịch sử của Liên Xô, sự phản bác xã hội dân sự tiếp tục tới tận thập niên 80 thế kỉ XX.

Đến cuối thập niên 1980, ở Liên Xô, Gorbachev đề ra cải cách chính trị, cho phép thành lập hàng loạt các tổ chức phi chính phủ, xã hội dân sự... Kết quả là chính phủ Liên Xô trở nên ngày một yếu đuối và dễ bị tổn thương do họ không còn quyền lực mạnh mẽ như trước đây. Các tổ chức phi chính phủ, xã hội dân sự đã lợi dụng chủ trương phản biện xã hội để chỉ trích, thậm chí vu khống Nhà nước Liên Xô, biến phản biện xã hội thành một quá trình không kiểm soát được. Không còn bị kiểm soát, các tổ chức này đã tiến hành những hoạt động “diễn biến hòa bình”, gây mâu thuẫn giữa các sắc tộc trong Liên bang Xô Viết. Các biện pháp bao gồm: Bôi nhọ Chủ nghĩa Mác-Lênin, gây mất lòng tin của người dân vào chính quyền bằng các biện pháp chụp mũ, tạo tin đồn giả. Xuất hiện rất nhiều bài viết xét lại lịch sử, xét lại chủ nghĩa xã hội, phủ nhận vai trò của Cách mạng Tháng Mười trên báo chí mà không bị ngăn chặn và xử lí. Các “tổ chức phi chính phủ” xuất hiện rất nhiều (hơn 30.000 tổ chức vào năm 1987), trong đó nhiều tổ chức nhận tài trợ nước ngoài, vận động ngầm hoặc công khai truyền bá tư tưởng phủ nhận Nhà nước Liên Xô. Nhiều đơn vị xuất bản, phát thanh, truyền hình được phương Tây tài trợ đã quay sang chỉ trích lịch sử cách mạng, khiến tư tưởng chính trị của đảng viên và Nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng sụt giảm nghiêm trọng. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tan rã Liên Xô năm 1991.

Hình ảnh Liên Xô hỗn loạn trước thời điểm tan rã

Có thể khẳng định, “xã hội dân sự” - một thứ ngay chính các thể chế nhà nước tư bản nay cũng không muốn nó tồn tại để đối trọng với chính quyền nhưng lại được họ triệt để tận dụng tại các nước Đông Âu, Liên Xô trước đây và với Liên bang Nga hiện tại.

Thực tiễn ở các nước Liên Xô và Đông Âu năm 1990, hay khủng hoảng chính trị ở Trung Đông, Bắc Phi năm 2012 đã cho thấy, các thế lực bên ngoài đã lợi dụng các tổ chức xã hội dân sự để tạo ra tổ chức đối lập, lợi dụng “đấu tranh dân chủ” để kích động người dân thực hiện “Cách mạng màu”, nhằm lật đổ chế độ xã hội ở các quốc gia khác.

Dưới chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, mô hình nhà nước được thiết chế đầy đủ các tổ chức đại diện cho các nhóm trong xã hội. Với thiết chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, Nhân dân làm chủ, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội đều có quyền giám sát, phản biện chính sách trong khuôn khổ pháp luật nhằm tới mục tiêu chung là dân chủ, công bằng.

Những thế lực bất mãn, chống đối hiểu rõ sự lợi hại của “xã hội dân chủ” chính từ thực tiễn tại Liên Xô, Đông Âu, Bắc Phi. Họ nói xã hội dân sự nhưng đằng sau là những mưu đồ chính trị, đúng như Lênin vạch rõ “nếu họ không làm chính trị thẳng thắn thì cũng làm chính trị bí mật”. Mục tiêu của các cuộc “Cách mạng màu” đâu phải là tạo một nền dân chủ mới, đó đều là thay đổi thể chế hiện tại./.

Đinh Hoàng

Bài nghiên cứu trao đổi đăng Tạp chí Người cao tuổi ngày 16 tháng 07 năm 2021

Thứ Tư, 14 tháng 7, 2021

Chính sách và cuộc sống

 Giá thấp hay giá hợp lí?      

Nhà ở xã hội (NƠXH) là cụm từ chỉ công trình chung cư dành cho người thu nhập thấp. Vì đối tượng thu nhập thấp nên giá thành phải ở mức thấp hơn giá nhà thương mại trên thị trường cùng khu vực.

Để bảo đảm giá thấp, hiện Nhà nước có chính sách ưu đãi riêng như miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất; hỗ trợ cho vay vốn ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội, tổ chức tín dụng do Nhà nước chỉ định cho chủ đầu tư, người mua nhà; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng… Những năm qua, Nhà nước đã bổ sung hàng nghìn tỉ đồng vào chính sách hỗ trợ NƠXH.

Một dự án nhà ở xã hội tại Hà Nội

Những tưởng với các ưu đãi, khi xây dựng NƠXH các chủ đầu tư có thể bảo đảm được chất lượng công trình tương tự nhà ở thương mại với giá thành thấp hơn. Tuy nhiên, thực tế hầu hết công trình NƠXH giá thành cũng chẳng kém nhà ở thương mại là bao trong khi chất lượng công trình, hạ tầng kĩ thuật, hạ tầng xã hội kém xa.

Tôi từng được chứng kiến trường hợp một người bạn “méo mặt” vì mua NƠXH. Hoàn thiện nội thất chuyển đến ở ít ngày gặp trận mưa lớn kéo dài, do cửa sổ chất lượng kém, nước mưa tạt qua khe ròng ròng chảy vào nền nhà. Rồi đến lượt tường cũng ngấm nước khiến nền nhà chẳng khác sân trời. Sau trận mưa đó, lớp gỗ lát sàn vốn được anh làm lại thay cho nền lát gạch men đã bong lên, nở phồng…

Không thể phủ nhận thực tế đang có hiện tượng NƠXH, nhà tái định cư bị một số chủ đầu tư coi nhẹ chất lượng. Đồng thời công tác giám sát đầu tư xây dựng không được chú trọng, hệ quả là người mua nhà hứng chịu.

Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một số đô thị hiện đang đau đầu với bài toán chung cư cũ xuống cấp, vừa mất mĩ quan vừa đe dọa sự an toàn của cư dân. Một trong những nguyên nhân của thực trạng trên là chất lượng công trình không bảo đảm. Nếu chấp nhận những chung cư tái định cư, NƠXH chất lượng thấp thì vài ba chục năm nữa sẽ tiếp tục lặp lại bài toán cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ hiện nay.  

Tại các đô thị trên cả nước có khoảng 2.500 khối nhà chung cư cũ 

Một số chuyên gia đã chỉ ra, chính sách NƠXH kém hiệu quả bởi mang nặng tư duy bao cấp, xin cho. Những ưu đãi có tác dụng làm giảm giá bán nhưng do quản lí thiếu chặt chẽ dẫn đến hành vi trục lợi, lạm dụng và không ít suất NƠXH “đến nhầm” đối tượng. Đã nhiều ý kiến đề xuất xóa bỏ bao cấp trong chính sách nhà ở, vừa tạo công bằng vừa khắc phục sự méo mó trên thị trường. Chính sách cần hướng tới xây dựng những căn hộ chung cư giá thành hợp lí thay vì bao cấp để kéo giảm giá.

Vừa qua, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư 03/2021-TT-BXD, theo đó diện tích sử dụng tối thiểu của căn hộ chung cư là 25m2. Với diện tích này người thu nhập thấp có thể tiếp cận căn hộ thương mại vì giá thành chỉ tương đương căn NƠXH.

Yêu cầu một tỉ lệ phù hợp trong dự án chung cư thương mại, căn hộ diện tích nhỏ sẽ là giải pháp khả thi cho bài toán chung cư bình dân mà không cần những ưu đãi hay bao cấp./.

Đinh Hoàng

Bài bình luận đăng Tạp chí Người cao tuổi ngày 14 tháng 07 năm 2021

 


Thứ Hai, 12 tháng 7, 2021

Pháp luật và kinh doanh

 

 Dài hay ngắn, hai năm thời 4.0?

Trong thời đại toàn cầu hóa, quyền sở hữu trí tuệ (QSHTT) là tài sản giá trị lớn mà bất kì cá nhân, doanh nghiệp hay tổ chức nào cũng muốn nắm giữ, duy trì. Các nước phát triển đặc biệt coi trọng bảo vệ QSHTT.

Từ một nước sản xuất nhỏ đi lên, tư duy của đa số người dân và doanh nghiệp Việt từ lâu chưa thực sự quan tâm tới QSHTT. Thực trạng đó đã dẫn tới hệ quả là không ít thương hiệu nổi tiếng trong nước nhanh chóng bị đối tác nước ngoài “nẫng tay trên”. Mất bao năm tháng, công sức, trí tuệ bồi đắp nên giá trị thương hiệu, không ít doanh nghiệp bỗng nhận ra đã mất trắng khi “mang chuông đi đấm nước người”.

Tuy nhiên, cũng không thể đổ hết lỗi QSHTT cho cá nhân, doanh nghiệp. Cơ quan quản lí có phần trách nhiệm không nhỏ cho tình trạng cá nhân, doanh nghiệp không mặn mà và sự “thất thoát” giá trị thương hiệu. Thậm chí thể chế pháp luật, quy trình thực hiện cũng đang như những rào cản vô hình trong quá trình xác lập QSHTT.

Mới đây, một doanh nghiệp chia sẻ với báo chí việc công ty mình vừa thành công khi đưa sản phẩm nước mắm truyền thống niêm yết được trên sàn thương mại điện tử Amazon. Từ vị trí đứng thứ 2.000, sau một thời gian ngắn đã lên top đầu trên sàn thương mại này với số lượng đơn đặt hàng với tăng trưởng 2.590%.


 Trung Nguyên từng bị công ty Rice Field đăng kí bảo hộ thương hiệu café Trung Nguyên tại Mỹ và Tổ chức bảo hộ Trí tuệ Thế giới.

Để được bán hàng trên sàn Amazon, doanh nghiệp buộc phải có đăng kí sở hữu trí tuệ, có pháp lí thương hiệu minh bạch. Trong khi doanh nghiêp chỉ mất 8 tháng từ đăng kí đến khi được niêm yết trên sàn Amazon thì quy trình đăng kí QSHTT trong nước lại mất 2 năm mới hoàn thành!

Một số chủ doanh nghiệp cũng cho rằng, theo Luật Sở hữu trí tuệ, trường hợp đơn đăng kí nhãn hiệu suôn sẻ, không bị yêu cầu điều chỉnh, sửa đổi, từ chối hoặc có ý kiến phản đối từ bên thứ ba, thời gian từ lúc nộp đơn đăng kí đến khi có kết quả cấp văn bằng bảo hộ sẽ không quá 12 tháng. Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam, thời hạn này thường kéo dài hơn 24 tháng. 

Tháng 11/2019 gạo ST25 của kĩ sư Hồ Quang Cua được trao giải gạo ngon nhất thế giới tại cuộc thi World's Best Rice, do The Rice Trader tổ chức tại Philippines. Vậy mà chỉ đến tháng 10/2020 nó đã bị một doanh nghiệp tại California (Mỹ) nộp đăng kí và đang trong giai đoạn chờ để được bảo hộ tại nước này.

Hai năm có thể là thời gian đủ để một cá nhân, doanh nghiệp tạo nên nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm hàng hóa nào đó.

Hai năm mới có một tờ chứng nhận QSHTT trong giai đoạn khoa học kĩ thuật phát triển nhanh như vũ bão hiện nay có vẻ như một sự “lệch pha” về tốc độ. Để hỗ trợ, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tỉếp cận QSHTT thì trước tiên pháp luật và quy trình vận hành cần được điều chỉnh.

Sự nhiêu khê trong quy trình thủ tục và thời gian kéo dài là một trong các nguyên nhân khiến nhiều người không thiết tha đăng kí QSHTT cho phát kiến, sản phẩm, thương hiệu của mình./.

Đinh Hoàng

Bài bình luận đăng Tạp chí Người cao tuổi ngày 10 tháng 07 năm 2021

Thứ Sáu, 9 tháng 7, 2021

Cơ chế độc quyền

 

 “Thang” bất an, bao giờ sẽ sửa?

Bảng giá điện bậc thang của EVN với mục tiêu khuyến khích người dân sử dụng nguồn năng lượng này tiết kiệm vì nguồn cung so với nhu cầu luôn có khoảng cách.

Thế nhưng cách thiết kế thang giá thì có vẻ lại như chủ yếu hướng tới lợi nhuận cao chứ chưa hẳn vì khuyến khích dùng điện tiết kiệm, bởi khách hàng càng dùng nhiều thì EVN càng lãi lớn.

Khó dung hòa lợi ích khi còn cơ chế độc quyền ngành điện

Bước nhảy giá điện ở các bậc không đều đặn, an toàn như khái niệm và cách hiểu về một chiếc thang cho người sử dụng, leo cao. Thử xem bảng giá điện sinh hoạt hiện hành: Bậc 1: Cho kWh từ 0 - 50: 1.678đ/kWh; Bậc 2: từ kWh từ 51 - 100: 1.734 kWh; Bậc 3: từ kWh từ 101 - 200: 2.014 kWh; Bậc 4: từ kWh từ 201 - 300: 2.536 kWh; Bậc 5: từ kWh từ 301 - 400: 2.834 kWh; Bậc 6: từ 401 kWh trở lên: 2.927 kWh. Như vậy, chỉ tại bậc nhảy đầu là ngắn (56 đồng), còn từ bậc tiếp theo đều gấp 4-9 lần so với bậc nhảy đầu tiên. Mà với nhu cầu đồ gia dụng thiết yếu mỗi gia đình hiện nay khó tìm được hộ chỉ tiêu thụ 100kW/h mỗi tháng. Vì vậy có thể hiểu bậc thang đầu chỉ “làm cho có” vì mọi người đều “leo tắt” qua bậc thang thứ hai.

Nếu bạn thử lấy thông số giá tiền trên thay bằng centimet để đóng một chiếc thang thì sẽ thấy, đó là chiếc thang lộn ngược, đố ai dám trèo! Còn với chiếc “thang giá điện” ai cũng phải “trèo” nếu còn muốn dùng điện.

Cách đây 3 năm dư luận bức xúc khi hóa đơn tiền điện tăng đột biến do cách tính giá điện bậc thang bất hợp lí tác động tới thu nhập, đời sống, sinh hoạt của người dân. Từ đó đến nay, “xuân thu nhị kì” cứ hè đến là lại rộ lên câu chuyện giá điện bậc thang. Nhiều chuyên gia chỉ rõ, cách xây dựng các bước nhảy số, nhảy giá tiền không phù hợp với đại đa số nhu cầu sử dụng điện của người dân là nguyên nhân khiến hóa đơn tiền điện tăng cao.

 

Từ năm 2019, trước những phản ánh về hóa đơn tiền điện tăng đột biến gấp 3-4 lần, ngành công thương đã thừa nhận sự bất cập trong áp dụng cách tính giá điện bậc thang và hứa sẽ nghiên cứu đề xuất biểu giá điện mới. Nhưng tới tháng 3/2020 do dịch Covid-19 ngành công thương lại xin lùi thời gian báo cáo phương án sửa đổi biểu giá bán lẻ điện sinh hoạt. Vừa qua, ngành công thương lại hẹn sẽ trình lại Chính phủ phương án sửa biểu giá điện trong năm nay nhưng nói bây giờ mới là tháng 6, còn chưa hết năm! EVN cũng lại mới phát đi thông tin cảnh báo: Sản lượng tiêu thụ điện đã lên đỉnh mới!

Vậy là suốt 3 năm, việc sửa “chiếc thang giá” vẫn quanh quẩn điệp khúc “sẽ lấy ý kiến”, “đang lấy ý kiến”, “vẫn còn sớm” và sẽ… Xem ra “chiếc thang” này quá khó sửa, khi mà mục tiêu lợi nhuận không thể giảm. Có lẽ chỉ trong cơ chế độc quyền thì khách hàng mới có thể bị đối xử như vậy.

Nếu chưa rũ bỏ được tư duy lợi nhuận cao hơn quyền lợi khách hàng thì dù “chiếc thang giá” có được chỉnh sửa đôi chút về “hình thù”, sự bất cập sẽ vẫn tồn tại, người dùng điện khó an lòng với những chiếc hóa đơn tiền điện mỗi khi hè đến./.

Đinh Hoàng

Bài bình luận đăng Tạp chí Người cao tuổi ngày 09 tháng 07 năm 2021

Thứ Hai, 5 tháng 7, 2021

Quản lí kinh tế

 

Thu hộ có hợp lí?

Với mô hình chợ truyền thống, cá nhân kinh doanh chịu trách nhiệm trả tiền thuê ki ốt, mặt bằng cho Ban quản lí chợ, chấp hành các quy định về an ninh, trật tự, điều lệ… do Ban quản lí quy định và nộp thuế cho Nhà nước theo Luật Quản lí thuế.

Với mô hình này, Ban quản lí chợ không thể nắm được doanh thu của từng cá nhân kinh doanh và có lẽ họ cũng chỉ quan tâm hộ kinh doanh nộp đúng, đủ tiền thuê mặt bằng. Giả sử nay giao thêm cho Ban quản lí chợ thu thuế của từng cá nhân kinh doanh giúp ngành thuế liệu có khả thi? Có lẽ điều đó sẽ rất khó. Nếu ép Ban quản lí chợ nhiệm vụ thu thuế thì có thể họ phải chấp hành. Song Ban quản lí chợ cần thêm nhân lực có trình độ quản lí và nghiệp vụ tài chính. Bằng không dễ xảy ra tình trạng thất thu hoặc lạm dụng.

Tình huống như trên nay đang được ngành thuế đưa vào thực hiện với “chợ trên mạng” - sàn thương mại điện tử (TMĐT). Theo quy định mới nhất tại Thông tư 40/2021/TT-BTC ngày 1/6/2021 của Bộ Tài chính “hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lí thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh” có hiệu lực từ ngày 1/8/2021, các sàn TMĐT phải kê khai và nộp thuế thay cho cá nhân kinh doanh. Được biết, mục tiêu của Thông tư 40 nhằm tránh thất thu ngân sách. Hiểu nôm na là sàn TMĐT được giao thêm nhiệm vụ thu thuế giúp cơ quan quản lí chuyên ngành.

Ảnh minh họa

Tuy không thể so sánh sàn TMĐT với chợ truyền thống song chức năng quản lí sàn thương mại và ban quản lí chợ cũng có nét tương đồng. Sàn TMĐT là một đơn vị kinh doanh, doanh thu đến từ tiền thuê của các “tiểu thương” trên mạng và nộp thuế cho Nhà nước trên cơ sở doanh thu hoặc lợi nhuận thu được. Theo quy định hiện hành, cá nhân kinh doanh tự khai thuế và nộp thuế cho cơ quan quản lí thuế. Theo Luật Quản lí thuế, sàn TMĐT không phải đơn vị thuộc cơ quan nhà nước nên không có chức năng, nhiệm vụ quản lí, thu thuế.

Luật Quản lí thuế số 38/2019/QH14 năm 2019 đã quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của các cơ quan quản lí và đối tượng nộp thuế. Nhiệm vụ quản lí, thu thuế chủ trì là Bộ Tài chính, đơn vị trực thuộc gồm Tổng cụ Thuế, các Cục, Chi cục… Giao cho đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh kết hợp thu thuế thay là không đúng quy định của pháp luật. Ngành thuế chỉ có thể yêu cầu sàn TMĐT cung cấp thông tin khách hàng giao dịch trên sàn để giám sát khi cá nhân kê khai thuế.

Sàn TMĐT trong nước đang nhỏ bé và lép vế trước các “ông lớn” TMĐT đa quốc gia. Nay giao thêm nhiệm vụ thu thuế sẽ gây khó cho các sàn TMĐT. Mặt khác có thể nhiều cá nhân kinh doanh TMĐT sẽ chuyển sang các trang mạng trực tuyến nước ngoài để né thuế.

Trong thời công nghệ thông tin phát triển nhanh hiện nay, thu thuế kinh doanh trên môi trường mạng là rất khó khăn, nhất là thương mại xuyên biên giới. Tuy nhiên, dù khó thì đó vẫn là nhiệm vụ mà ngành thuế phải thực hiện. Thiết nghĩ cơ quan quản lí thuế cần chủ động cập nhật, nâng cao trình độ năng lực đội ngũ để hoàn thành nhiệm vụ, không thể vì khó mà đẩy trách nhiệm quản lí cho đối tượng không có thẩm quyền./.

Đinh Hoàng

Bài bình luận đăng Tạp chí Người cao tuổi ngày 03 tháng 07 năm 2021